Monday, May 7, 2012

HỊCH DỰNG CỜ!



Thảy hay!!!
Đất Việt phong ba!

Trời Nam bão tố!

Tròng Lê Mác đang lớp lớp kìm đầu !

Ách Hồ Mao tầng tầng kẹp cổ.

Nguời ta sinh ra đều có tự do;

Dân ta bị xử như là cầm thú.

Quốc gia nào cũng có tự chủ tự do;

Tổ Quốc ta đã mất quyền tự do tự chủ.

Nhân dân ta bị bốc lột dã man;

Nhân dân bị chà đạp mọi rợ .

Truyền thống bị chối từ, Cội nguồn bị xóa bỏ.

Dân tộc nào cũng có quyền tin tuởng vào tương lai đất nuớc, kêu hãnh về quê hương.

Dân Việt ta đa mất quyền tin tưởng vào đất nuớc tưong lai , tự hào về xứ sở.

Quê Hương ta hởi ! Tuong lai ta sao? Kìa ngục tù khủng bố!

Đau khổ nào hơn thế hệ khổ đau.

Tủi hổ nào bằng chúng ta tủi hổ!

Cho nên:
Dựng cờ chính nghĩa: Giải phóng quê hương! Xây nền Tự do : Đập tan cộng đỏ!

Lịch sử ta xưa :
Phạm Ngu Lão ngồi đan sọt lo việc nước, giáo đâm thủng bấp đùi không hay.
Trần Quốc Toản nghe việc nước hận giặc thù, tay bóp quả cam chẳng rõ.Thế giặc quá mạnh, sao lại không lo ?
Lực thù vẫn cuờng, sao lại chẳng sợ ? Nọ, noi quan ải Âu Á,vó kỵ binh Đại Hán tràn sang xầm xập, nát nát cỏ cây; Kìa, chốn biên thùy nước Nam
Gót truờng chinh Nguyên Mông đạp xuống trùng trùng, ào ào thác lũ.
Ai là kẻ có thể vô tư, ai là nguời quyết tử ?
Vậy mà có kẻ mãi miết tìm vui ; Ấy thế cũng còn nguời mê man huởng thú.
Nhưng dù ai kia có mãi tính thế gà chọi , mê lo mẹo cờ bạc, nghi lợi riêng quên điều quốc nạn; quả đúng như ghi
truyền hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vuong ;
Ắt hẳn họ cũng còn biết rời xa canh bạc buộc bỏ độ đá gà ,
Lo việc chung diệt lũ quân thù, nên mới làm rạng ngời những trang gấm vóc, lo việc Việt Nam sách sử.
Nếu cả nước chỉ len lén cho chật túi, chăm chăm thu lợi mọn, thì ai là kẻ đoạt giáo bến Chương Dương ?
Nếu mọi nhà nhong nhóng chơi cho phỉ lòng, mải miết hưởng nguồn vui, thì ai là nguời cầm Hồ cửa Hàm Tử?
Khi giặc xâm lấn, dân Ta đã muôn nguời nhu một đồng tâm chống giặc, Phụ lão Hội Nghị Diên Hồng sử chép còn đây;
Lúc thù tràn lan, nước ta đã tất cả trên duới quyết chí diệt thù,
Quân tuớng trận mạc Bình Than sách ghi còn đó.
Ta đánh giặc dưới nước, ngoài đồng. Ta diệt thù trên rừng. dưới hố.
Đánh giặc bằng giáo sắt. gậy tre; Diệt thù bằng thuyền nan, xe cỏ.
Đánh cho giặc tan tác chạy dài, ….quân thù tả tơi hải sợ.
Quân Nguyên phơi thây ngập núi, vía khiềp, hồn kinh.
Giặc Mông xác nổi nghẹt sông. tim rơi, mật vỡ.
Bại tướng của chúng phải chui ống đồng rút chạy mới giữ đuợc toàn thân; Tàn quân của họ đạp lên nhau tháo lui, mong tìm ra sinh lộ.
Khiếp sợ lan ra phương Bắc đến nỗi chó heo cũng sợ, không dám sủa la;
Hải kinh lấn toàn cõi biên thùy, khiến cho gà vịt phải kinh, chẳng còn gáy ó. Tất cả tĩnh lặng đến nhức óc đinh tai. Hoàn toàn âm u đến co đầu rụt cổ,
Bao năm sau đó, nghe đến danh “Ề Sin Tầy Vo óng Ề“, dân vẫn còn phách lạc hồn siêu.
Nhiều lượt truớc đây, nói về tướng Trần Đại Vương, giặc cũng run chân mặt ủ,.
Có khác chi trận địa Đông Quan.của Lê Lợi Nguyễn Trải, âm thầm nhưng lẩm liệt, đất rộng trời long;
Cũng giống hệt năm ngày nơi chiến truờng Ngọc Hà của Hoàng đế Quang Trung, lẫm liệt và oai hùng, sét hung, sấm nộ.
Xuân đó, hoa đao thuốc súng nhuộm đen ; Tết đó niềm vui nở rộ.
Đây ta quê hương ! Đó ta lịch sử.
Lại xưa:
Kẻ Đào Nương sau mỗi lần rượu chuốc, trói giặc thả trôi sông;
Người Ca kỹ mãn những buổi tiệc bày, xiết thù mang bỏ rọ.
Khi cần chống giặc, chị em nào cứ phải voi cuỡi trận xong ;
Lúc phải diệt thù, tay yếu chân mềm cung góp phần xoay trở.
Là Bà con Triệu, nếu mở xòng tấu nhạc, ắt chẳng thiếu vàng thoi ;
Là cháu Bà Trung nếu nàng cốt giầy rạp kiếm tiền, hẳn cung du bạc bó.
Còn đâu danh thom kiếp cầm ca, lẽ nào luu danh thanh sử.
Giữ đất không đuợc, Phan Thanh Giản đanh đem mạng sống ra tạ tội với triều đinh ;
Bám ngai chẳng rời, vua Tự Đức đa dùng đế quyền để duyệt phê vào tấu sớ : Ề nầy đoi đánh , đánh không đuợc, đặt trẩm noi mô? Mai đoi công, công chẳng xong, kê ngai chổ nớ ?
Ê quan lại triều đinh nhu nhuợc, chỉ tính kế cầu hòa ‘ Si phu bá tánh kiên cuờng, luôn tìm phuong kháng cự.
Chỉ đến quyền vị, không có tuong lai xã tắc, Tự Đúc không đáng minh quân;
Mãng quên cả thân danh, thảy nhớ nguy biến son hà, Tôn Liêm mới đích lời lịch sử.
Lại Tri Phuong nhịn ăn chịu chết, khi bảo vệ Hà Thành ; Nọ Hoàng Diệu thắt cổ quyên sinh, lúc trấn bình Bắc phủ.
Guong nghia liệt vẫn mãi mãi chói lòa. Tấm kiên trung muôn đời sang tỏ.
Đây là Quê huong; Đó là lịch sử! Ai mà không thấy lịch sử tự hào?
Ai mà không xem Quê hương tự phụ?

Vẫn biết, vận nước có lúc thịnh lúc suy ; Lại hay, cơ trời có khi tan khi tụ. Nhưng những trang trung liệt thuở nào cũng đủ ;
Và những bậc hiền tài đời nào vẫn đủ : Tự giới quần thoa chí bậc trượng phu ; Từ noi tôn quý đến hàng dân thứ.
Để an nền xã tắc, ta đa có những bậc thiền su rời non chống gậy vào triều bày ra sách lược an dân.
Để cứu giải sơn hà, ta đã có những trang dũng sĩ bỏ nhà xách kiếm vào cung dựng lại thế cờ nghiêng đổ.
Ta đãcó người xóa điều thù nghịch, cúi mình dâng kế an định bốn phuong,
Ta đã có người gác tình cha con, dấn thân đệ trình Bình Ngô sách cảo.
Ta đã có người liệt trung móc ruột , thảy vào mặt quân thù. ta đã có người vì đại nghĩa quên mình, khoác hoàng bào cứu chủ.
Đa có ngườì suốt đời bôn ba hãi ngoại, vận động việc cứu quốc phục hưng; Lại có kẻ một mình lặn lội chốn lân bang, ôm bom diệt cừu đền nợ.
Dân ta không có đền đài đồ sộ để thế giới phục khâm;
Nước ta không có những kiến trúc nguy nga để hoàn cầu còn nguỡng mộ. Lăng miếu ta đều thấp kín khỉêm nhường ; Thành quách ta cũng đơn sơ bé nhỏ.
Nhung ta chống giặc bằng thành cao hào sâu, mà ta diệt thù bằng chính Da vàng Máu Đỏ : bằng tình đoàn kết vô biên, bằng lòng ái quốc vô độ.
Khi thù tới, cờ lau kia cung thành cây giáo nhọn, cát sỏi nhỏ cung hóa thành mủi tên đồng;
Lúc giặc vào, khe rạch đó cũng thành chổ chôn thây, hồ ao nầy cũng nên nơi tang sọ; dành cho lũ quân thù, để cho loài lang thú.
Dân Nam ta không bao giờ chịu khuất phục đầu hàng ; Giống Việt ta vẫn mãi đứng vùng lên tự chủ .
Đó là giá trị ngàn đời của giống Lạc Long ; Đó là truyền thống muôn năm của nòi Âu Tử.
Tự ngàn năm Bắc thuộc, ta đa vùng ra đoạt lại quyền tự chủ, bằng những chiến công lở đất long trời ;
Trong trăm năm Tây xâm, ta đa tiến lên dành lấy sự tự do bằng những chiến thắng tấn phong liệt vu.
Từ Văn Thân tới Cần vuong, Đông Du uy hùng ; Từ Bãi Sậy đến Yên Thế, Vuờn Trầu phách cỏ;
Ta đã cho loài người một gương sáng lạn về sự bất khuất vô luờng ;
Ta cũng cho thế giới một ý nghĩa hùng hồn bất hủ.
Giá trị vuợt xa những kỳ quan vô hồn của bốn bể năm châu;
Ý nghĩa hơn hẳn những thành tích lẫy lừng của thập phương tứ xứ.
Chí Việt còn dài hơn cả Vạn Lý Truờng Thành xưa, Khí Nam cũng cao hơn cả trăm Kim Tự Tháp cổ .
Chí vươn tận khoảng trời mây, Khí xuyên qua bầu tinh tú.
Đấy ta Quê Hương ! Đó ta Lịch sử!
Ai mà không thấy kiêu hãnh tự hào, Ai mà không thấy kiêu hùng tự phụ.

Tới thế hệ chúng ta lịch sử vừa ghi lại là đã có người Việt Nam bỏ chạy, nguyên do bởi vì đâu ?
Đến những ngày hôm nay, đất nước hiện đang chìm trong thống trị của lũ cộng sản vô thần, hậu quả tại sao ?
Việc phải đến đã đến : suy tàn, Việc đã hư phải hư: xụp đổ.
Dân vỡ hàng, Quân tan ngủ. Dân bỏ nhà tháo chạy, lếch thếch, lang thang. Quân mất ải rút lui, xớn xa, xớn xớ.
Từ Quảng trị rút ào; Từ Pleiku chạy bổ, chen nhau để chạy, nên xớn xác cửa nhà ;
Lấn nhau để lui, ngổn ngang xe cộ, Lạc con, mất vợ. Vùi em, lấp Bố
Chưa từng thấy cảnh địa ngục kinh hoàng ! Chưa từng có noi trần gian thống khổ!
Xác lấn xác bập bềnh bên cồn , dập vùi duới hố.
Rồi kêu gào thế giới ở giữa thinh không của biển cả mênh mông , lại năn nỉ nhân loại trong sự thờ ơ của văn minh tiến bộ .
Nguời Việt bị hất hủi, đạp chà; Hết đảo nầy tới vịnh kia. Từ bờ nầy qua bến nọ.
Nguời Việt chết tức tuởi trong nhà tù. Dân Nam chết nhục ở noi trại thú. Chết hãi hùng trên Đại dương. Chết tủi hờn duới vực hố.
Chết không ai hay. Chết không ai rõ Chết không khói nhang, Chết không huyệt mộ.
Nguời Việt phải lao xuống làn sóng nuớc vì tuyệt vọng hết niềm tin:
Dân Nam lạy quân cuớp biển vì khảo tra, quá man rợ.và cung có nguời Việt quên nguồn noi đất khách, chỉ biết vui bạc tiền ;
Lại cung còn dân Nam mất gốc noi chốn quê nguời, đa không hay điều uế xú.
Dân ta có sinh ra để van lạy , chạy trốn nhu vậy không đây? Dân ta có cầu sống trong nhục ô tủi hờn, tựa rày không đó ?
Và ta còn là con nguời : hay ta đa thành giống thú? Để chấp nhận đuợc điều nầy ; Cung đanh cam chịu lẽ nọ?
Lịch sử cung vừa ghi lại một dân tộc trung dung quật cuờng nhất nhì thế giới, đa có những đứa con cuồng tín bán nuớc buôn dân.
Đất nuớc hiện đang phải chịu cảnh áp bức bất nhẫn độc nhất vô song , do tay đám bè lu vô thần phản nòi hại tổ.
Chúng tố mẹ, giết cha chúng bắt con cuỡng vợ.
Chúng lấy truờng học làm noi chốn tù đay . Chúng chẻ bàn thờ làm gong cùm khí cụ;
Chúng đầu độc con trẻ , dạy điều gian dối . Chúng hiếp đáp nguời già, coi dân cầm thú.
Chúng mở cửa cho đế quốc vô thần vào thống trị dân tộc, rồi đạp dân ra ngoi ngóp giữa chốn mênh mong biển cả ;
Đuổi dân lên vất vuởng giữa nuớc độc rừng thiêng . Chúng dọn nhà cho mác lê cộng sản tới trấn ngự giang san;
Xong gom dân đi đánh thuê cho lu khát máu điên cuồng, đay dân đi làm nô dịch vùng băng che tuyết phủ.
Chúng cuớp bóc vuờn ruộng, cúi đầu dâng cúng quan thầy. Chúng vo vét bạc vàng, khom lung cam làm đầy tớ.
Họ họ điêu linh nhà nhà khốn khổ.
Chúng còn bất nhân tôn vinh điều phi nghia , lạy vái xác khô. Chúng lại buộc làng nuớc ca ngợi lẽ vô luân, cúng thờ quỷ đỏ.
Chúng xâm lăng láng giềng trắng trợn, reo rắc kinh hoàng noi tôn miếu đền đai;
Chúng lừa gạt thế giới tinh vi, ngang nhiên nhục mạ đấng cha ông tiên tổ.
Chúng là lu thống trị tàn nguợc nhất loài nguời. Chúng là quân bạo quyền dã man nhất lịch sử.
Sự hung cuồng của chúng đa che mờ bầu nhật nguyệt mênh mang. Sự tàn bạo của chúng đa vuợt cả lẽ đông tây kim cổ.
Những tên bạo chúa ghê tởm nhất lịch sử, lôi đầu địa ngục lên sánh bọn chúng, chỉ đáng thổi com.
Những kẻ bá quyền dã man nhất loài nguời, kéo cổ từ trần gian xuống so tụi nầy, chua xứng tên lính khố.
Bỏ chạy là chúng ta, Hung tàn là công đỏ. Chúng ta bỏ chạy, thế giới đang lên án chúng,.
Bọn nó hung tàn , loài nguời đang nguyền rủa tụi nó.
Tổ tiên nhìn xuống cung phải ngậm ngùi, Ông cha trông lại ắt còn tủi hổ. Nếu còn biết cúi đầu suy nghi, ta phải thấy nhục với tiền nhân:
Nếu còn biết ngẩng mặt nhìn lên, ta phải thấy đau lòng tiên tổ.
Giòng lịch sử không ngừng lại đây; Cờ chính nghia đa dựng lên rồi đó.
Con những bậc tiền nhân đa có nguời đúng lên; Cháu của anh kiệt đa có nguời thấy rõ.
Đa biết hối lỗi quay về; đa hay đớn hèn xóa bỏ.
Hôm nay :
Ngoài chốn quê huong đa có những bà lão băn khoăn nghi ngợi, không biết có kịp về vì tuổi lão chất chồng.
Giữa noi đất tổ đa có những cụ già canh cánh lo âu, chẳng hay còn thể tới vì thân già lụ khụ.
Nghi ngợi, nhung vẫn đứng lên. Lo âu, vẫn còn hăng hổ.
Đa có những nguời thú riêng ru bỏ, coi giàu sang nhu gió thoảng, nhu vó câu qua cửa ;
Đa có những nguời vui lớn rời xa, xem quyền vị nhu mây bay, can truờng gắn bó,
Gắn bó để còn gặp những con nguời sắt thép năm xua lạnh lẽo chiến đấu giữa rừng già.
Trở về, để tìm những trái tim quả cảm kiên nhẫn âm thầm đấu tranh trong nội cỏ.
Cùng nhau tìm lại con đuờng lớn cho dân tộc giống nòi; Cùng nhau bồi đấp nền móng xua của quê huong xứ sở.
Đa có những nguời học cụ Sào Nam nửa đem ra đi khép cửa , hy sinh mái ấm gia đinh . đa có những nguời noi guong Thái Học một sáng từ giã lên đuờng, muu cầu quốc gia đại sự ra đi là về với dân tộc đồng bào ;
Dựng xây lại trận thế, địa cờ. Đảo nguợc lại tình hình, cuộc vụ.
Nhất quyết không chịu buông xuôi cho lu vô thần; Một lòng thề nguyền tiêu diệt hết loại quỷ dữ.
Nắm lấy giáo mác tầm vông ; Giật lại súng guom xe cộ.
Họ đang chung sức cùng đồng đội, phá tan xiềng xích,
Lật đổ lu bạo quyền điên dại, đập nát hết tiền đồn phuong đông của đế quốc vô thần.
Họ đang đâu lung cùng đồng bào, giải phóng quê huong, dựng xây giải xứ điêu tàn, điểm tô lại giang son gấm vóc của tiền nhân tiên tổ. Câu hò đối kháng đa lan xa từ lòng đất nuớc quê huong ;
Lời thề phục quốc đang vang dội khắp chốn núi rừng thị tứ. tiếng gọi giải thể vang vang. Đập tan nát xiềng xích ngục tù.
Lời ca chiến đấu vuon cao, chuyển rung đất trời vu trụ. Từ lục địa nầy; Qua hãi duong nọ;
Từ trẻ con đan bà. tới thanh niên lão phụ. noi nào cung có kẻ xin thề. Tuổi nào cung có nguời chiếu cố. Chính khí sang ngời, Hoàng Kỳ rực rỡ.
Nghi hoặc đa đuợc sáng soi, Thờ o đa bị phá vỡ. Những lo âu đa đuợc trấn tỉnh, phục hồi.
Những gánh nặng đa đuợc cất lên, tháo gở. Những u tối của bạo lực đa bị đuổi xua.
Những lý lẽ của thỏa hiệp cung đa xụp đổ. Một khí thế mới đa bùng ra. Một tinh thần mạnh đang bộc nổ.
Tiếng phá cùm gong đang nuôi duỡng niềm tin trong tiếng reo hò của dân tộc tù đay.
Ý chiến đâu đa thắp sáng hy vọng giữa vùng đen đặc của quê huong thống khổ .
Dân tộc đa trở về truyền thống bất khuất kiên cuờng. Quê huong đang dựng lại co đồ vàng son cẩm tú.
Chúng ta không còn cô độc, cô đon. Chúng ta đa cùng kết đoàn , kết ngu. Chính điều anh lo nghi ấp ủ trong lòng truớc điều phản phúc nhục nhã không dám nói ra, là điều tôi uu tu gìn giữ trong tim sau bao thất vọng ê chề, ngại ngùng thố lộ.
Chính niềm đau đớn của cha khi nghi đến đồng bào ruột thịt chốn quê nhà, Là nỗi thao thức của con lúc huớng về làng xóm thân yêu noi bản xứ.
Chúng ta cùng giòng máu đỏ. Cái lo của Anh của Chị, cái lo của Cô của Bác, cung là cái lo chung của quê huong xứ sở.
Bây giờ ta đa gặp ta. tuong lai tỏ càng sáng tỏ. Việc trở về đa trở thành điều cụ thể chắc chắn , chẳng phải mo hồ.
Cuộc giải phóng đa trở thành niềm tin tuởng thép đồng , không gì cản trở.
Ý chí khôi phục quê huong cuồn cuộn chảy trong huyết quản chúng ta ; Nhiệt tình giải phóng tổ quốc bừng bừng sôi trong tâm can đoàn ngu.
Đa có nguời đứng dậy, xung phong. Đa có toán hối lỗi trở về, rầm rộ.
Cánh sát cánh, thề chung sức đấu tranh, Vai chen vai, nguyên dốc lòng hỗ trợ.
Ta mài dao cho sắc, cùng chiến hữu diệt lu vô thần. Ta luyện chí cho bền, cùng dẹp loài quỷ đỏ.
Vinh viễn tiêu diệt cộng sản dã man trên quê huong. Đời đời duy trì truyền thống bất khuất của tiên tổ.
Đua đất Việt lên lại ngôi vị vinh quang của một quốc gia nhân đạo, sang suốt văn minh.
Trả trời Nam trở về bầu trời sáng lạn của một dân tộc can truờng, hào hùng đức độ.
Ta đa đứng bên nhau cùng tiến tới duới ngọn Hoàng Kỳ; Ta sẽ nắm tay nhau cùng trở về truớc bàn thờ Quốc Tổ;
Để xác nhận nguời Việt hiện tại vẫn là nguời Việt muôn đời ;
Để chứng minh dân Nam tuong lai luôn là dân Nam cuờng vu
Đuốc Thiêng Diên Hồng của Phục Hung Tổ Quốc, đa truyền sáng từng thớ thịt của thế hệ của chúng ta.
Khí hùng Lam Son của giải phóng Việt Nam đang rung chuyển từng đuờng gân của đồng bào máu mủ.
Ngọn cờ chính nghia của đồng bào đang phải tha huong đa giuong cao; Tinh thần Phục Quốc của nguời dân không chịu mất nuớc đang rực rỡ.
Ta chỉ mất nuớc khi phủ nhận trách nhiệm truớc tiền nhân;
Ta duong cao ngọn cờ để xác nhận chiến đấu cho hậu tử.
Hãy đứng dậy. xông pha!.
Cùng đứng lên, phục vụ!
Hãy quên đi những bất đồng đa qua, Hãy nhớ lại những nhọc nhằn quá khứ. Hãy vun bồi những tin tuởng đang còn. Hãy xóa tan những hoài nghi đa có.

Muôn nguời nhu một, chúng ta cùng tiến tới, nối dài chính nghia từ đời xua tới đời sau;
Quyết chí đồng tâm, chúng ta cung vuon lên, phất cao Đại Kỳ từ chiến khu về thủ phủ.
Hãy trở lại đấu tranh cho quyền làm nguời quyền tự do quyền thuong yêu của dân tộc giống nòi ;
Hãy vùng lên xứng đáng là nguời dân Nam nguời con Hồng nguời cháu Lạc của Cha Ông Tổ Phụ:
Để tìm thấy niềm kiêu hãnh tự hào, Để rửa bôi mọi nỗi nhục ô, tủi hổ.
Khí thiêng sông núi không bao giờ tắt trong lòng nguời con dân !
Lịch sử Việt nam không để cho viết bằng tay loài quỷ đỏ!
Vùng lên, cuớp lấy súng, viết lại những trang lịch sử vẻ vang !
Đứng dậy, giật lấy guom, xây lại một giải đất non sông cẩm tú!

Nuớc Việt bất diệt, hùng cuờng!
Nguời Nam quật cuờng, bất tử!

Nguyễn Lộng Son
Winnipeg

0 comments:

Powered By Blogger